(Vì có vụ Kim Jong Il chết, dân khóc như ngày trước dân Việt Nam khóc Bác Hồ, ông bà già cứ thế xem và vô hình trung suy tôn ông Kim, làm mình phải quan tâm một chút. Mình nói tại dân Triều Tiên sống trong khổ cực, ngu muội, không tiếp cận thông tin nên mới khóc ông Kim thế, nhưng ông bà già không tin. Thì đây, một bài viết của một người công tác ở Triều Tiên 30 năm, cho chúng ta biết thế nào là Triều Tiên, nhất định phải về tuyên truyền cho ông bà già. Bài viết thì có lỗi chính tả, nhưng dài quá nên mạn phép xin không sửa).
Thông tin về Bắc Triều Tiên có
rất ít, thậm chí chúng tôi đã làm về Bắc Triều Tiên hơn 30 năm rồi mà
cũng chưa giải đáp được những câu hỏi mà
các anh lúc nãy đã sơ bộ nêu ra, không biết Bắc Triều Tiên là cái gì
đâu. Bây giờ, tôi chưa có tham vọng trả lời với các anh cái ông này nó
thế nào, chế độ này nó ra làm sao, hay nó là loại gì trong lịch sử nhân
loại. Tôi chỉ xin kể lại những điều mắt thấy tai nghe, những gì đã cảm
nhận được trong suốt một thời gian dài công tác ở đây. Thực tế trong quá
trình công tác nhiều năm cũng không có những nguồn thông tin gì thực sự
đáng tin cậy, cũng là nghe qua người này, người kia, qua bộ phận này,
bộ phận khác. Không có một loại tài liệu gì mang tính chất chính thống
mà người ta đưa ra.
Tôi chỉ có tham vọng báo cáo để
các anh đứng ở góc độ cương vị công tác của mình và trên nhiều góc độ
khác để có nhận xét về chế độ, về vị lãnh đạo này, về cái Đảng này nó
như thế nào? Gần đây, Bắc Triều Tiên có mấy sự kiện lớn: Vấn đề hạt
nhân. Gần đây nhất là vấn đề máy bay trinh thám của Mỹ bay vào không
phận Bắc Triều Tiên. Trước đây Bắc Triều Tiên đã rình cái máy bay này
mấy lần rồi, nhưng không làm sao bắt được quả tang. Lần này đã có sự
chuẩn bị từ trước, Bắc Triều Tiên cho xuất phát 4 máy bay MIC 29, đuổi
khoảng 20 phút trên bầu trời, có lúc hai bên đã tiếp cận cách nhau 14,
15 mét. Bắc Triều Tiên đã kiềm chế không bắn, vì nếu bắn thì không bao
giờ nó rơi trên đất Bắc Triều Tiên được. Theo địa hình bản đồ Bắc Triều
Tiên các anh sẽ rõ vì khi bị đuổi bao giờ máy bay cũng chạy ra phía
biển; nếu có bắn trúng thì nó cũng bay được thêm 500 – 600 km ra ngoài
biển, rồi mới rơi, lúc đó cãi nhau thì mệt lắm. Bên thì bảo tôi còn bay ở
ngoài, anh bắn tôi, bên thì bảo anh đã vào đất liền của tôi, tôi bắn.
Nhưng tang chứng thì máy bay lại rơi ngoài biển khơi.
Trước đây, vấn đề hạt nhân của
Bắc Triều Tiên cũng rất phức tạp. Bắc Triều Tiên không có khả năng cạnh
tranh về kinh tế với Hàn Quốc. Do đó người ta mới nghĩ ra cần có một con
bài gì đó để mặc cả. Bắc Triều Tiên đưa ra chính sách phát triển về
kinh tế là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Trong công nghiệp nặng
lại ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, mà công nghiệp quốc phòng
thì lại vô cùng tốn kém: một khẩu súng bằng cả mấy cái máy cày, một quả
tên lửa tính ra không biết bao nhiêu tiền của. Do đó từ khi theo con
đường này, kinh tế Bắc Triều Tiên cứ luôn luôn bị lệch lạc. Bắc Triều
Tiên coi nhẹ công nghiệp nhẹ và nông nghiệp cho nên đời sống nhân dân
rất khổ, phải thắt lưng buộc bụng từ khi thành lập nước đến tận bây giờ.
Sang thế kỷ XXI, các nước XHCN phát triển nhanh chóng, nhưng Bắc Triều Tiên vẫn cứ thắt lưng buộc bụng, vẫn đói.
Ở Hàn Quốc còn có Sam Sung, LG
Tivi, máy giặt bán trên thế giới, nhưng mà không thể tìm thấy một thứ đồ
dùng gì của Bắc Triều Tiên đưa ra thế giới. Người ta nói rằng từ ngày
ông Kim Nhật Thành mất đi (1994) ông đã mang theo tất cả những tinh hoa
của đất nước. Vì vậy, khi ông Kim Châng In lên thay, đã không lãnh đạo
được, để dân chết đói ghê quá. Tính đến năm 1994-1997, theo hãng thông
tin cho biết, Bắc Triều Tiên đã để dân chết đói đến 2,8 triệu người, hơn
con số ta chết đói năm 1945, khi Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, chỉ có 2
triệu. Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI mà một nước XHCN đã để cho dân chết
2,8 triệu, đây là một tội ác, là rất vô nhân đạo. Một chị người Triều
Tiên, vừa được sang lấy chồng Việt Nam đã nói với tôi: “Anh ạ, không
phải là không có một con đường để Triều Tiên thoát ra khỏi cảnh đói
nghèo, có nhưng người ta không đi. Tại sao tôi biết, vì khi tôi vào Sứ
quán Hàn Quốc ở khách sạn Deawoo, có một thư viện rất lớn. Tôi đọc sách,
tôi mới thấy rõ ràng là có con đường khác mà lãnh tụ của tôi không đi,
cứ đi theo con đường này, cho nên dân tôi chết đói. Từ xưa đến nay tôi
được giáo dục những điều không đúng sự thật”. Đây là điều ta đáng phải
suy nghĩ.
Theo bản đồ thì Bắc Triều Tiên
phía Bắc giáp Trung Quốc khoảng 1300 km, có biên giới rất lớn; phía Đông
giáp với Liên Xô có 16 km; phía Nam giáp với Hàn Quốc ở vĩ tuyến 38.
Phía bên này giáp biển Tây là Trung Quốc; giáp biển Đông là Nhật Bản. Từ
đó ta thấy Bắc Triều Tiên là một nước vừa nghèo vừa nhỏ nằm kẹp giữa
các cường quốc: Trung Quốc, Nga, Nhật Bản; phía Nam giáp biên giới là
người anh em Hàn Quốc, mặc dù chưa phải là cường quốc nhưng là một nước
phát triển. Theo ông Tổng thống mới nhất của Hàn Quốc khi nhận chức đã
công bố Hàn Quốc đứng hàng thứ 12 Thế giới là loại mạnh rồi.
Vị trí địa lý chính trị làm cho
Bắc Triều Tiên ở vào thế rất bị o ép. Từ đó sự an nguy của Bắc Triều
Tiên phụ thuộc rất nhiều yếu tố chi phối của các nước lớn này. Chính vì
thế mà vấn đề định hướng cho Bắc Triều Tiên, nói rộng ra là cả bán đảo
Triều Tiên, vấn đề thống nhất Nam-Bắc (Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc) không
hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của nhân dân, hay là ý muốn của Ban Lãnh
đạo, mà nó còn phụ thuộc vào lợi ích của các nước lớn xung quanh.
Như các đồng chí đã biết trên thế
giới có 3 loại nước bị chia cắt là Đông Đức, Việt Nam và Nam Bắc Triều
Tiên. Việt Nam đã thực hiện được thống nhất đất nước theo kiểu của ta.
Đông Đức thì thống nhất theo kiểu sáp nhập tức là bên này nuốt chửng bên
kia. Theo Hàn Quốc nếu sáp nhập theo kiểu này thì họ không thể cáng
đáng nổi, vì Đông Đức ngày xưa so với các nước XHCN khác là vào loại
khá. Khi sáp nhập thì Tây Đức đã thấy đây là một gánh nặng đến bây giờ
vẫn chưa gỡ ra được, vẫn như cái hố trong nền nhà. Sự phân biệt giữa
người Đông Đức và người Tây Đức vẫn còn tồn tại nhiều năm nay. Hàn Quốc
cho rằng nếu thống nhất như kiểu Tây Đức thì không kham nổi, tức là phải
cõng một ông anh què quặt trên lưng, đi trên một con đường rất dài chưa
biết đến bao giờ ông ấy khỏe chân để đặt xuống dắt ông ấy đi. Tính đến
bây giờ về tiềm lực kinh tế năm nay tổng sản phẩm quốc dân của Bắc Triều
Tiên mới có khoảng 15 tỷ, có ngân hàng nói chỉ có 10 tỷ. Trong khi đó,
tổng sản phẩm quốc dân của Hàn Quốc năm 2001 đã là 546 tỷ, một con số
chênh lệch quá đáng. Bây giờ muốn thống nhất được trước hết phải tăng
cường giao lưu, đầu tư vào Bắc Triều Tiên, vì đằng nào cũng phải đầu tư
ra nước ngoài, chi bằng đầu tư lên miền Bắc, cùng một dân tộc, cùng một
tính chất, cùng một con người, cùng một tiếng nói thì hiệu quả đầu tư nó
sẽ cao hơn. Như vậy Bắc Triều Tiên sẽ phát triển về kinh tế, khoa học
kỹ thuật khá dần lên, dần dần hai bên bớt sự chênh lệch, gần nhau hơn
thì may ra mới thống nhất được. Ông Tổng thống Kim Tê Chung nói: Việc
thống nhất của chúng tôi còn rất lâu dài.
Mẫu thứ hai để thống nhất là Việt Nam, dùng chiến tranh bạo lực thì Hàn Quốc không muốn vì thấy cái giá phải trả nó đắt quá.
Năm 1995, Tổng bí thư Đỗ Mười
sang thăm Hàn Quốc. Chủ tịch Đảng cầm quyền là Tổng thống Hàn Quốc đã
hỏi Tổng bí thư Đỗ Mười: “Ông có lời khuyên nào cho việc thống nhất của
chúng tôi không?”. Đồng chí Đỗ Mười chỉ nói một câu: “Nếu cho tôi có một
lời khuyên thì không dùng biện pháp chiến tranh vì nó rất đắt”. Đại ý
nói như vậy.
Hàn Quốc cũng không muốn như vậy vì đất nước đã phát triển ổn định, muốn ổn định để phát triển đi lên.
Vậy thì phải chọn ra con đường
thứ ba, không phải kiểu Đức hay kiểu Việt Nam, mà là kiểu dần dần tiến
tới đoàn kết dân tộc, tăng cường giao lưu hợp tác, rồi tiến tới thống
nhất. Con đường này sẽ rất dài, phải 20 năm hoặc 50, 70 năm trở ra. Dân
số Bắc Triều Tiên tính đến năm 2001 có khoảng 22 triệu rưỡi. Hàn Quốc có
khoảng 46 triệu (gấp đôi). Diện tích cũng gấp đôi, tiềm lực kinh tế thì
Hàn Quốc gấp ba bốn chục lần. Thủ đô của Bắc Triều Tiên là Bình Nhưỡng,
là một thủ đô tương đối đẹp. Trong quyển sách “Những nền văn minh thế
giới” đã liệt thủ đô Bình Nhưỡng là một trong những thủ đô đẹp của thế
giới. Sau chiến tranh Triều Tiên 1952-1953, thủ đô Bình Nhưỡng bị san
bằng tất cả. Sau đó Liên Xô đứng ra thiết kế lại toàn bộ, cho quy hoạch
xây dựng Thủ đô. Quy hoạch này được thiết kế rất hoàn chỉnh, xây rất
lớn, như tòa thư viện nhân dân ở giữa thủ đô, Hội trường Quốc hội rất
lớn và đẹp, kè của con sông Đại Đồng chảy qua thủ đô đẹp mỹ mãn. Cho đến
bây giờ vẫn theo quy hoạch này. Chỉ tội cái nền khoa học kỹ thuật, kinh
tế yếu nên trông nó rất buồn tẻ, nhưng lúc nào cũng cảm thấy nó thanh
bình, như cây liễu rủ bên sông Đại Đồng, đường phố thì rộng lớn, đẹp đẽ
và quy củ. Xã hội rất ngăn nắp, giáo dục rất nghiêm chỉnh tất nhiên là
rất lạc hậu.
Lãnh đạo của Bắc Triều Tiên bây
giờ là ông Kim Châng In (Kim Chính Nhật), giữ chức Tổng bí thư Đảng Lao
động Triều Tiên – chứ không phải là Tổng bí thư của Ban Chấp hành – Chủ
tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội là ông Kim Iâng Nam. Theo Hiến pháp sửa
đổi năm 1998, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội có vai trò đối ngoại
như nguyên thủ quốc gia, giống như Nhật Hoàng. Các công việc như Trình
quốc thư, ký giấy ủy nhiệm, ban bố sắc lệnh đều do Chủ tịch Ủy ban
thường vụ Quốc hội ký.
Sau đó mới đến ông Chê Chung Ốc,
Chủ tịch Quốc hội. Ông này chẳng khác gì ông từ giữ đền. Hôm nào họp thì
ông trải chiếu, giống như Văn phòng của ta. Danh nghĩa là Chủ tịch Quốc
hội, nhưng thực quyền thì không có. Tất cả thực quyền đều tập trung vào
ông Kim Châng In. Còn ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì không có gì đáng
nói.
Chế
độ của Bắc Triều Tiên danh chính ngôn thuận gọi là XHCN theo kiểu Triều
Tiên. XHCN kiểu Triều Tiên này cũng có rất nhiều cái khó hiểu, một chế
độ phong kiến, độc đoán, gia đình trị. Phong kiến vì lễ giáo rất nặng
nề, cấp trên cấp dưới sùng bái. Nếu ai không sùng bái ông ấy là đã mất
đầu rồi, chưa nói là chống lại, nếu chống lại thì không bao giờ tồn tại.
Tệ sùng bái này được kế thừa từ ông bố Kim Nhật Thành. Ở Triều Tiên
hiện nay mọi người đều đeo một cái huy hiệu rất to. Có 3, 4 loại huy
hiệu; có loại một ảnh là ông Kim Nhật Thành, hoặc ông Kim Châng In rất
to; có 2 loại ảnh thì hai ông cùng ngồi. Có phân cấp từng loại một. Tệ
sùng bái này bây giờ vẫn còn nặng nề vô cùng. Trung Quốc hiện nay đã bỏ
các huy hiệu và ngũ lục Mao Trạch Đông. Thời Kim Nhật Thành còn sống,
khi anh chị em gặp nhau trên đường, không bao giờ được phép chào hỏi
nhau về sức khỏe, mà phải hỏi nhau đã đọc trước tác Kim Nhật Thành đến
chương mấy rồi. Nếu có người thứ 3 ở đấy mà lại hỏi nhau về con cái, sức
khỏe thì sau đấy rất phiền toái. Một ngày một người có 12 giờ ở cơ quan
gồm: 8 giờ làm công việc được giao, 2 giờ lao động công ích như quét
tước ở xung quanh cơ quan, xí nghiệp hay nhà máy, sau đó có 2 giờ ngồi
đọc trước tác Kim Nhật Thành.
Học sinh trung học, cấp 2, cấp 3
hay Đại học thì không có lúc nào được phép ngồi để suy nghĩ. Vì ngồi suy
nghĩ lại lẩn thẩn nghĩ tại sao mình khổ, tại sao bố mẹ mình lao động 12
tiếng một ngày mà vẫn nghèo. Người ta không muốn có thời gian để suy
nghĩ cá nhân, bắt phải đi học, học ở trên lớp xong, về nhà ăn cơm trưa
xong thì ra tập múa hát (Hát toàn những bài ca ngợi ông Kim Nhật Thành).
Sau đó là lao động công ích, học trước tác. Đến tối là về nghỉ ngơi, ăn
cơm. Có những ông giáo nói không bao giờ biết mặt con vì sáng sớm đi
làm con chưa ngủ dậy, tối khuya mới về thì con đã đi ngủ. Con mấy tuổi
mà vẫn không biết mặt. Cường độ lao động rất căng thẳng. Một xã hội rất
nặng nề. Các nước phương Tây gọi xã hội này là binh doanh xã hội, tức là
trại lính. Mới nhìn vào thì thấy xã hội rất quy củ, nền nếp, nhưng đi
sâu vào thì thấy nó nặng nề lắm. Có một ông Đại sứ Angiêri khi mới sang
có nói một xã hội như thế này mà tại sao người ta cứ chửi bới, phong
cảnh thì đẹp đẽ, con người thì nền nếp – ông được đi tham quan, dự tiệc
tùng. Một tháng sau, sau khi trình quốc thư thì ông bắt đầu chửi Triều
Tiên: Sao lại có một xã hội kỳ dị như thế. Mùa đông thì không có lò
sưởi, vào nhà làm việc chỉ được 10 phút là phải về, nếu lâu một chút là
đau đầu gối, ngồi lâu thì đau lưng vì lạnh quá.
Đến tháng thứ hai thì ông ta chửi
thậm tệ: Tại sao một xã hội để cho dân khổ thế này, bắt dân mang giẻ đi
lau từng thanh ray, thanh sắt trên cầu, nhiều cái rất vô lý.
Nếu có sang thăm Bắc Triều Tiên, ở
độ một tuần thì thấy rất đẹp, nhưng đến một tháng trở ra thì chán lắm.
Tôi đã ở bên ấy 15 năm, chịu hết nổi. Những năm 60, 70 ra chợ còn mua
được túi táo. Khóa trước khóa vừa rồi thì không còn nữa. Tất cả đều phải
mua ở Bắc Kinh. Hàng tháng đại sứ ta cử người đi bằng tàu hỏa sang Bắc
Kinh, một ngày đi, một ngày về, 3 ngày đi mua sắm và chuẩn bị. Tất cả
các loại thực phẩm gạo, thịt, cá đều mua ở Bắc Kinh, sau đó đưa về sứ
quán chia cho anh chị em theo đăng ký của từng người, từng gia đình, còn
lại Sứ quán dùng để chiêu đãi hoặc tiếp khách.
Có lần phòng thông tin của Sứ
quán cần 20 mét dây điện để làm việc. Các anh đánh xe đi khắp nơi khoảng
2 – 3 tiếng mà không mua được vì các cửa hàng đều không có.
Tôi có cô con gái được sang Xê Un
học tập. Trước đó cháu có qua Bình Nhưỡng thăm chúng tôi. Gia đình muốn
chụp một kiều ảnh kỷ niệm. Chúng tôi đi 3, 4 cửa hàng, có cửa hàng chỉ
còn 1 kiểu, có cửa hàng không có phim, đến một cửa hàng còn 3, 4 kiểu
nhưng máy lại rất cổ, không có độ rum, phòng chụp thì bé, người thì
nhiều nên chụp không đẹp. Sau đó cháu sang Xê Un, có biên thư cho chúng
tôi nói ở Xê Un chẳng thiếu thứ gì.
Năm 2001, có đoàn của Bộ Văn hóa
do một đồng chí thứ trưởng dẫn đầu (anh Phúc) sang thăm Triều Tiên, có
mang 5.000 tấn gạo để tặng bạn. Qua Bắc Kinh có gặp tôi, anh đề nghị tôi
cho vài đường chỉ dẫn (anh nói vui vậy). Tôi có nói: Anh là thứ trưởng,
thuộc loại cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước; hai là lại mang quà
sang; ba là lại sang vào cuối tháng 4 – mà tháng 4 là tháng có ngày sinh
của ông Kim Nhật Thành – thì rất thuận lợi cho anh. Ba yếu tố đó đã tạo
cho anh một cái thẻ của một vị khách được trọng vọng. Nhưng tôi cũng
phải nói với anh tại thủ đô Bình Nhưỡng không có điện đường. Anh ấy bảo
cậu cứ dọa tớ, thủ đô mà lại không có điện đường. Tại sao tôi nói vậy,
vì trước đây có đoàn của anh Vũ Khoan, anh Phạm Tất Đang sang, bạn cho ở
tại Khách sạn 5 sao. Khi vào nhà vệ sinh, thấy có một cái bồn tắm để
đầy nước, anh tháo nước đi, đến khi đi vệ sinh xong thì không có nước để
dội. Gọi người phục vụ thì họ nói: nước chứa trong bồn tắm là nước để
dùng cả ngày. Bây giờ phải xin nước ở phòng khác để dùng.
Một ngày thường mất điện không
bao giờ dưới 10 lần. Một lần tôi thí điểm bằng cái máy cắt, cứ mỗi lần
có điện trở lại thì nó lại cắt đi một đoạn dây bằng cái phong bì. Từ 16
giờ hôm trước đến 8 giờ hôm sau, tôi kiểm tra có 24 mảnh giấy trắng được
cắt ra như thế, mất điện thường xuyên, “trường kỳ kháng chiến”.
Hồi tôi mới sang lần đầu tiên,
bao giờ cũng có lệ mời anh em đi uống bai – gọi là nhập trạch. Hôm đó
thấy mỗi người cầm một cái đèn pin. Tôi nói: ta đến khách sạn cơ mà. Y
như rằng đèn pin có tác dụng. Ngồi một lúc thì mất điện, phải bật đèn
pin và gọi nhân viên đến châm nến.
Khi đoàn của anh Thứ trưởng Bộ
Văn hóa về, qua Bắc Kinh gặp tôi. Anh nói: Ai đời ở khách sạn 5 sao mà
mấy ngày trời ăn toàn củ cải, xào rồi luộc, nấu; nước không có; ra đường
không có điện đóm gì, tối như bưng, thỉnh thoảng có người chạy vụt qua.
Tôi có nói với anh Phúc: ở Thủ đô có chỗ vẫn có điện. Ở ngã tư nào có
ảnh của ông Kim đứng, ở dưới chân có một cái đèn hắt lên. Ở chỗ ấy thì
có điện, chỉ chiếu lên người ông thôi, còn chung quanh tối bưng. Điện
đấy không phải để thắp sáng cho nhân dân, mà là để “tra tấn” ông Kim
Nhật Thành, vì riêng mặt ông ấy sáng, nên muỗi và châu chấu bay đến bao
vây đậu vào hoặc lao vào mặt ông ấy. Anh Phúc có nói với tôi: khi nào có
đoàn sang, anh báo tin cho tôi để tôi gửi cho các anh mấy cân tôm khô,
chứ sống thế này thì khổ quá.
Vấn đề dân trí cũng rất thấp. Họ
không biết được Việt Nam đã giải phóng đâu. Năm 1989 có Đại hội Thanh
niên sinh viên thế giới lần thứ 13 (Festival) tổ chức tại Bình Nhưỡng.
Đoàn Việt Nam do anh Hà Quang Dự làm trưởng đoàn. Anh Hà Quang Dự có đến
chào Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn của Bắc Triều Tiên. Ông này chúc
đồng chí Hà Quang Dự: “Chúc Việt Nam mau chóng đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược để giải phóng Tổ quốc”. Đồng chí Hà Quang Dự cho rằng phiên dịch
sai. Đồng chí phiên dịch nói: “Tôi đã chinh chiến ở đây mười mấy năm
rồi, không dịch sai được đâu”. Đồng chí Dự phải nói lại: “Chúng tôi đã
thống nhất đất nước từ năm 1975, đến nay đã gần 20 năm rồi”. Đồng chí Bí
thư thứ nhất TW Đoàn Triều Tiên vỗ vai đồng chí Dự và nói: “Chúng ta là
những người chiến sĩ cộng sản, không nên giấu nhau, không nên nói dối”.
Các đồng chí luôn luôn tin tưởng ở chúng tôi bao giờ cũng chung một
chiến hào, sát cánh với các đồng chí đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Qua đó ta thấy dân trí ở đây rất
thấp. Người ta ví chế độ XHCN của Bắc Triều Tiên như một cái hộp đen,
trong đó có rất nhiều cái bí ẩn; không ai được phép xem. Cho nên Bắc
Triều Tiên rất sợ mở cửa, cải cách. Nếu mở cửa cải cách thì hộp đen dần
dần hé mở thì các bí mật trong đó sẽ lộ ra hết, sẽ thành chuyện tày
trời. Vì sao vậy?
Năm 1996, ông Bí thư Trung ương
Đảng Bắc Triều Tiên đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Bắc Triều
Tiên sang dự Đại hội lần thứ VIII Đảng ta (1996). Đến 1997 thì ông ấy
đào tẩu sang Hàn Quốc. Ông ta là một trí thức lớn, hiểu trưởng Trường
Đại học Tổng hợp Kim Nhật Thành. Ông là cha đẻ ra tư tưởng chủ thể Kim
Nhật Thành. Ông ấy lại bỏ đất nước ra đi. Ông cho rằng: Tôi phải ra đi
để nói cho mọi người trên thế giới rằng: cái chế độ này không thể tồn
tại, phải tìm ra một cách đi khác cho đất nước này, xã hội này. Chế độ
của Bắc Triều Tiên là một chế độ rất hà khắc. Nếu những bí mật của chế
độ Bắc Triều Tiên được hé mở ra, thì người ta sẽ thấy nó tàn ác và vô
nhân đạo hơn cả chế độ Pôn Pốt ở Campuchia.
Các nhà tù, khu biệt giam ở biên
giới được mở rộng nhiều. Trước đây chỉ có ở 2, 3 tỉnh. Sau này phát
triển ra mấy chục cái trại ở nhiều tỉnh. Các trại này là một khu rộng
lớn, trong đó đầy người như khu biệt xứ ở Sibêri ngày xưa ở Liên Xô.
Thí dụ: Có một ông đang làm Thủ
tướng. Bẵng đi một thời gian không thấy tên trên báo chí. Sau đã thấy
ông ấy đang ở trên biên giới làm giám đốc lâm trường khai thác gỗ ở biên
giới. Cái lệ sùng bái lãnh tụ trở thành một cái bắt buộc để sống. Cho
nên ai cũng phải học trước tác, ai cũng phải sùng bái. Hỏi trẻ con về
những danh nhân trên thế giới, ông Mác, ông Lênin đều không biết, chỉ
biết mỗi ông Kim Nhật Thành thôi. Hỏi về trước tác, chương mấy, điều bao
nhiêu nói về thiếu nhi thì các cháu đọc luôn, thuộc lòng.
Ở Bắc Triều Tiên bây giờ có việc
mua được một cái đài hay một cái dàn điện tử về, thì Hải quan giữ, cắt
hết các sóng ngắn, để khi bật lên chỉ nghe thấy tiếng Kim Nhật Thành nói
thôi, không phải dò sóng gì cả. Ở bên đó chỉ có một đề tài là ca ngợi
Kim Nhật Thành, khi bật Tivi lên là thấy hai cha con. Phim truyện thì
cũng chỉ có một đề tài ca ngợi hai cha con Kim Nhật Thành, không có một
đề tài nào khác. Thí dụ: Hai anh chị yêu nhau, nhưng khi đến lúc gay cấn
nhất thì lại nghĩ đến ông Kim Nhật Thành. Gần đây nhất có một cô giành
được giải nhất về Maratông quốc tế. Phóng viên có hỏi: Chị nghĩ như thế
nào trong quá trình tập luyện để đạt được giải. Chị trả lời: “Tôi vừa
chạy vừa nghĩ đến Tướng quân Kim Châng In nên đạt được thành tích như
vậy”. Tất cả xã hội gần như phải bắt buộc theo một quy chuẩn, bắt buộc
tư tưởng người ta phải suy nghĩ như vậy không được suy nghĩ gì khác, mà
việc này đôi khi nó cũng có hiệu quả. Thí dụ như trên báo của Đảng đến
ngày sinh của ông Kim Châng In là ngày 16 tháng 2 thì năm nào cũng có
một bài nói về các hiện tượng kỳ thú, kỳ lạ của tự nhiên như tự dưng
trời quang mây tạnh thì có một cầu vồng đôi, hay là tự dưng thấy có bông
hoa lan nở hoa trái vụ, hay là tự dưng trên các cây ở hai bờ sông Đại
Đồng lại có cò trắng bay về. Trên báo Đảng có những bài mang tính chất
mê tín dị đoan, mỵ dân như vậy. Việc chi phí vào tệ sùng bái cá nhân này
cũng lớn lắm. Theo lịch sử chính thống thì ông Kim Châng In sinh ở núi
Bạch Đầu Sơn. Núi Bạch Đầu Sơn cách thủ đô hàng mấy trăm ki lô mét, đèo
heo hút gió, không có người ở trên đó thế mà cũng mang pháo hoa lên trên
ấy bắn để ca ngợi ông Kim Châng In.
Ngày sinh của ông Kim không phải
là ngày 16 tháng 2 năm 1942 như lịch sử bây giờ, ông Kim sinh năm 1941 ở
Viễn Đông – Nga. Hiện có rất nhiều tài liệu mà Hàn Quốc đã công bố. Ở
ngay Đại sứ quán Hàn Quốc ở Việt Nam cũng đã có rất nhiều tài liệu nói
về lịch sử của Triều Tiên. Ngay cô dâu Việt Nam cũng nói: Ngày sinh của
vị lãnh tụ của chúng tôi cũng bị hoán cải đi, bóp méo sự thật. Lãnh tụ
sinh năm 1941 ở Liên Xô lại nói sinh năm 1942 ở núi Bạch Đầu Sơn như thế
là không đúng. Qua đó ta thấy xã hội không theo một quy chuẩn nào cả,
quy chuẩn đạo đức cũng không phải, quy luật phát triển của lịch sử nhân
loại cũng không phải.
Cả thế giới người ta đang cách
mạng xanh, cách mạng tin học, nhưng Bắc Triều Tiên cứ lục cục sản xuất
tên lửa để đi đánh nhau. Nhân dân đều biết nhưng không dám phản đối, vì
mới nho nhoe thì đã bị túm rồi. Thủ đô Bình Nhưỡng hiện nay như một ốc
đảo. Các tỉnh xung quanh Thủ đô thì rất khổ, rất nghèo, đói rách triền
miên. Riêng Thủ đô vẫn rất sạch sẽ và cung cấp cho nhân dân vẫn tương
đối đầy đủ, khoảng 400 gram lương thực trong một ngày, còn các chỗ khác
chỉ khoảng 250 đến 300 gram, tùy từng vùng. Ở Thủ đô chỉ có gạo thôi,
còn thức ăn không có mấy. Thực hiện chế độ bao cấp toàn bộ, tất cả quần
áo của cán bộ công nhân viên ở trong thành phố do Nhà nước cấp phát. Ở
trường học cấp phát đồng phục. Nhân dân được cấp phát theo chế độ cán bộ
này, cán bộ kia. Cho nên nhân dân ăn mặc tươm tất, không có quần áo
rách. Thủ đô là ốc đảo vì xung quanh các cửa ô của thủ đô có các quân
đoàn quân đội đóng, có trạm gác. Ai ra vào đều bị khám xét rất kỹ, không
có lệnh không được vào, không được ra. Có những người ở tỉnh ngoài làm
việc ở Thủ đô cũng không được về thăm gia đình, quê hương. Ra khỏi thành
phố là phải có giấy phép rất đặc biệt. Vào thành phố phải là những đợt
được các tổ chức đoàn thể của Nhà nước cử đi họp, học tập mới được về,
không có chuyện vào thăm hay vào chơi trong thành phố.
Tôi xin kể lại chuyện chị người
Bắc Triều Tiên đã lấy chồng Việt Nam vừa qua. Chồng chị là anh Cảnh,
hiện là huấn luyện viên đội môtô – xe đạp của Sở TDTT Hà Nội – Năm1967,
anh được cử sang học ở Triều Tiên. Năm 1968-1969 anh đi thực tập ở một
nhà máy, anh yêu chị công nhân Triều Tiên. Vì lúc đó quy định của Nhà
nước ta là đi học không được phép yêu đương người nước ngoài. Song hai
bên vẫn cứ hẹn hò, chờ đợi cho đến bây giờ. Khi có những đoàn đại biểu
cấp cao đi thăm Triều Tiên thì anh lại gửi đơn cho Chủ tịch nước hoặc Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao đề nghị tác động với Triều Tiên để được lấy nhau.
Năm 2001, Chủ tịch nước Việt Nam
sang thăm Bắc Triều Tiên, anh Cảnh lại gửi thư nhờ Chủ tịch nước tác
động với Chính phủ Bắc Triều Tiên. Tháng 5 năm 2001 đặt vấn đề. Tháng 8
năm 2001 Quốc hội Triều Tiên họp đã thông qua cho phép chị lấy anh Cảnh.
Nhưng vẫn giữ quốc tịch Triều Tiên. Chị sinh năm 1948 – anh Cảnh sinh
năm 1949. Anh Cảnh có bố công tác ở Bộ Ngoại giao, anh là con một. Đây
là thắng lợi về mặt chế độ. Hôm nhận được lệnh đi, Công an mang một xe
tải đến đón chị (bên đó không có xe con), trên đó có một ghế băng. Chị
nói chị không đi, dù có chết cũng không đi. Vì chị nghĩ gia đình chị có
mấy tội: một là ông bố định bỏ đi miền Nam từ năm 1960, tức là tội bất
trung với Đảng, là một tội nặng nhất; hai là bản thân chị lại yêu một
người nước ngoài, tức là không trung thành với lãnh tụ. Với những tội đó
chắc là bị đưa đi xét xử, do vậy chị nhất quyết không đi. Khi công an
nói đó là lệnh của Lãnh tụ, chị phải đi. Khi xe đến biên giới của Thủ đô
thì bị ách lại. Sau đó phải điện cho Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao cho
xe con ra đón, đưa chị vào một khách sạn, lúc đó chị mới tin là còn
sống. Sau đó họ tổ chức lễ cưới cho chị ở Triều Tiên, chụp ảnh để lại
cho gia đình. Khi sang đây chị kể lại chuyện mẹ chị bị chết đói cách đây
mấy năm vì thương con không có gì ăn nên đã nhường lại cho con ăn.
Những nơi mà ngày xưa các anh ấy đến học tập, thực tập thì bây giờ không
còn gì nữa, chỉ còn lại là đồi trọc, vì không có gì để đun, nên mọi
người đến đó chặt hết. Nhà máy phân đạm mà ngày xưa anh Cảnh đến thực
tập và chúng tôi yêu nhau, do không có điện nên đã tháo dỡ hết phụ tùng
máy móc để cho vào lò đúc thép. Bây giờ ở đó rất buồn tẻ, con người thì
bạc nhược. Nếu so sánh với miền Nam Triều Tiên vào năm 1953, sau khi
chiến tranh Triều Tiên kết thúc thì miền Bắc Triều Tiên có nhiều ưu thế
hơn vì miền Bắc có nhiều khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên nhiều, các
ngành khai thác đó Nhật bóc lột vơ vét đều tập trung ở miền Bắc như
thép, than. Khi Nhật thua rút đi, miền Bắc tiếp thu được. Trong khi đó ở
miền Nam thì không có gì. Miền Nam chủ yếu là đồng bằng, nông nghiệp là
chính. Nếu tính thu nhập đầu người ở Hàn Quốc năm 1962 mới chỉ có 62
USD/đầu người. Đến năm 1996 thì tổng thu nhập bình quân đầu người đã lên
đến 11.000 USD/ người, đứng thứ 11 thế giới. Đến 1997 bị khủng hoảng
tài chính nên tụt xuống một chút. Mấy năm sau lại hồi phục được, bây giờ
được đánh giá đứng thứ 12 thế giới. Qua đó ta thấy được đường lối chỉ
khác nhau một chút kết quả thu được đã tất khác nhau. Hàn Quốc thực hiện
đường lối dựa vào ô quân sự của Mỹ, cho Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên
khoảng 37.000 quân, gần 100 căn cứ để rảnh tay đi vào sản xuất kinh tế,
buôn bán, sản xuất công nghiệp. Trong khi đó thì Bắc Triều Tiên tập
trung vào công nghiệp quốc phòng rất tốn kém, không còn đủ tiềm lực để
nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ.
Trong khoảng 14 năm (1962-1975),
dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Pắc Chung Hy, Hàn Quốc đã khôi phục đất
nước xong, sau đó tiếp tục phát triển rất nhanh đã trở thành một con
rồng ở khu vực này. Tổng sản phẩm quốc dân đạt 400, 500 tỷ đô la, thu
nhập đầu người vượt qua ngưỡng của 10.000 USD/người (11.400 USD).
Con đường phát triển định hướng
được đúng thì đi càng nhanh, đất nước càng phát triển được. Nếu định
hướng sai, đi càng nhanh càng chết. Ta hình dung Nam- Bắc Triều Tiên như
cái kéo, càng đi càng xa nhau, riêng nói về kinh tế chứ chưa nói về các
chế độ khác. Khoảng cách chênh lệch giữa hai miền càng ngày càng xa
nhau. Mấy năm gần đây Bắc Triều Tiên toàn phát triển trên con số không.
Từ 1994-1998 có năm bị âm đến 3,7%. Còn bình thường cứ âm từ 2% hoặc 3%.
Trong khi đó mặc dù Nam Triều Tiên bị mắc vào khủng hoảng tài chính năm
1997, nhưng đã bứt lên rất mạnh. Tinh thần dân tộc rất cao. Riêng về
kinh tế khi đất nước lâm nguy, người dân sẵn sàng tập trung toàn lực
mang vàng, bạc góp cho Nhà nước để cùng thoát ra khỏi khủng hoảng kinh
tế.
Ngược lại ở miền Bắc, do đường
lối kinh tế xác định không được chính xác, càng ngày càng lún sâu vào
khó khăn. Như các đồng chí đã biết mạnh vì gạo bạo vì tiền, khi đã nghèo
thì hèn, khi đã không phát triển thì cảm thấy xấu hổ, không dám nói với
ai. Tôi lấy ví dụ: Ngoại giao hay dự các buổi gặp mặt, tiệc tùng. Đại
sứ hoặc cán bộ ngoại giao của Hàn Quốc gặp mọi người tay bắt mặt mừng,
gặp gỡ trao đổi với Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Nông nghiệp, Bộ Giáo dục, Bộ
Văn hóa… Nhưng với Bắc Triều Tiên chỉ đứng một xó, không dám nói chuyện
với ai và cũng không có chuyện gì để nói. Gặp cán bộ ngoại giao chúng
tôi, là những người chí thân, nhưng cũng không biết nói chuyện gì và
cũng không có đề tài gì để nói cả.
Tôi đã kể một số sự kiện vụn vặt
để các anh hình dung. Tôi cũng không áp đặt bảo đây nó là cái gì, mà để
các anh tự đặt cho nó một cái tên.
Đảng của bạn có tên chính thức là
Đảng Lao động Triều Tiên được thành lập từ ngày 10 tháng 10 năm 1945 do
ông Kim Nhật Thành tập họp một số lực lượng chống Nhật. Quá trình thành
lập Đảng cũng nan giải lắm, đánh nhau ghê gớm. Khi nói về lãnh tụ Đảng
này, rất nhiều báo chí phương Tây đăng ảnh Kim Nhật Thành. Để thành lập
được Đảng, Kim Nhật Thành đã phải trừ khử không biết bao nhiêu là bạn
thân, chiến hữu mới lên được chức, thành lập được Đảng. Chính vì thế mà
có nhu cầu đặc biệt là phải sùng bái cá nhân. Tại sao phải sùng bái vì
cái gì mà người ta phải bắt người khác ca ngợi thì không phải cái ấy nó
tốt, nó đẹp, mà là nó yếu. Do đó phải phát động cả dân, huy động không
biết bao nhiêu tiền bạc, của cải vật chất, tinh thần, thời gian, sức lực
của cả dân tộc. Ở Bắc Triều Tiên khi cần huy động một lực lượng quần
chúng độ một triệu người thì chỉ cần một tiếng đồng hồ đã đứng suốt dọc
đường vẫy cờ, mặc áo dài đẹp từ sân bay về đến Nhà khách chính phủ để
đón một vị khách nào đó của nước ngoài. Qua đó thấy được một chế độ rất
bao cấp và do nhu cầu chính trị nên nó phải lên gân cốt để tạo cho mình
một thế vững mạnh.
Riêng về đường lối cách mạng của
Đảng Lao động Triều Tiên có rất nhiều cách tranh luận. Về lịch sử, ngày
15 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô ép được quân Nhật rút khỏi Triều
Tiên và giải phóng được Triều Tiên. Phía Nam, Mỹ vào giải phóng quân
Nhật, phía Bắc Liên Xô vào giải giáp. Theo hiệp định Giơnevơ ký năm
1945, đến năm 1947 thì Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Đến năm 1948
không thống nhất được, nên mỗi bên thành lập một Nhà nước riêng của
mình. Miền Bắc do Kim Nhật Thành đứng ra thành lập nhà nước. Trong quá
trình hoạch định ra đường lối phát triển cách mạng của Đảng, cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, quá trình xây dựng CNXH cũng có
rất nhiều khó khăn. Sau đó quyết định khởi sự cuộc chiến tranh, gọi là
Nam tiến. Vấn đề này còn rất nhiều bàn cãi. Có người nói Bắc Triều Tiên
tấn công vào miền Nam gây ra cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1952-1953;
có người thì nói là do Mỹ và Nam Triều Tiên Bắc tiến. Gần đây, nhiều tư
liệu được tiết lộ ra là phía Bắc tấn công phía Nam trước. Có nhiều lập
luận để chứng minh, tài liệu bí mật ở Mátscơva tiết lộ bằng giấy tờ
chứng minh lúc đó Bắc Triều Tiên đã xin phép Liên Xô và bàn với Trung
Quốc, sau đó tấn công. Cũng có người chỉ qua suy luận cũng đoán được
rằng Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên. Ngày 25 tháng 6 năm 1950,
cuộc chiến tranh nổ ra. Ba ngày sau, quân của Kim Nhật Thành đã ào ạt
tiến vào giải phóng hơn một nửa Nam Triều Tiên. Sau 4, 5 ngày chỉ còn
tỉnh Bu San, là tỉnh bé tí ti ở phía Tây Nam. Điều đó chứng tỏ phải có
sự chuẩn bị từ trước. Mỹ đứng ra cáng đáng cho Nam Triều Tiên, Mỹ đề
nghị Hộ đồng bảo an Liên hợp quốc họp. Mỹ xin được quân của Liên hợp
quốc. Quân của Liên hợp quốc đã giúp Nam Triều Tiên để chống lại Bắc
Triều Tiên, thì phải có lý do gì đó. Qua 2 ví dụ đó, người ít có điều
kiện tiếp xúc với tài liệu cũng có thể suy luận được rằng miền Bắc tấn
công miền Nam.
Thế của Nam Triều Tiên lúc đó
cũng giống như thế của Đài Loan với Trung Quốc. Họ chưa có tham vọng
quay trở lại để giải phóng cả đất nước.
Đường lối giải phóng Nam Triều
Tiên của Bắc Triều Tiên không được suôn sẻ. Khi quân của Liên hợp quốc
tấn công trở ra, toàn bộ quân miền Bắc bắt buộc phải hậu thoát lui về
phía Bắc, tận Ap-Lục giáp với Trung Quốc. Sau đó tràn trở xuống và giữ
đúng vĩ tuyến 38 như hồi đầu chiến tranh, chết rất nhiều quân, nhiều
tướng tài.
Đường lối đấu tranh thống nhất
của Đảng có rất nhiều nan giải, vì khi rút khỏi miền Nam thì đã rút toàn
bộ quân đội và những cơ sở cách mạng vốn đã có ở miền Nam. Cuối cùng ở
miền Nam là khu vực rất trống, không còn một cơ sở hạt giống cách mạng
nào, không giống như cuộc cách mạng giải phóng miền Nam của Việt Nam.
Cách mạng giải phóng miền Nam của Việt Nam đã tác động rất nhiều vào
đường lối cách mạng của Đảng Lao động Triều Tiên. Nhiều người thấy rằng
việc đánh tràn vào Nam Triều Tiên năm 1950 là rất khó khăn mà phải theo
kiểu Việt Nam, để cho nhân dân miền Nam tự phát động, miền Bắc ủng hộ,
trong đánh ra ngoài đánh vào mới giành thắng lợi. Chính vì thế mà đã gây
ra các cuộc tranh cãi và thanh trừng nội bộ Đảng rất gay gắt. Bao nhiêu
người đã từng có tư tưởng mới và đã sang Việt Nam để học tập về đều bị
thanh trừng hết, có đợt thanh trừng 6, 7 cán bộ cao cấp của quân đội,
của Đảng. Cho nên trong nội bộ Đảng có rất nhiều rạn nứt trong việc đấu
tranh thống nhất nước nhà thời gian đầu.
Về đường lối xây dựng kinh tế,
cân đối giữa phát triển kinh tế với phát triển quốc phòng trong Đảng
cũng rất nhiều tranh cãi và phe của Kim Nhật Thành vẫn là phe thắng. Ông
Kim đã gạt bỏ những người có tư tưởng cho là hữu khuynh, không nhìn rõ
kẻ thù, ảo tưởng về hòa bình. Đảng kiên quyết phát triển công nghiệp
nặng, sau đó mới đến phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp, do đó
rất tốn kém tiền của, vì thế mà sự tin tưởng của nhân dân ở Đảng ngày
càng giảm. Cũng chính vì đường lối phát triển không hợp lý, do vậy không
thể thực hiện được ước mơ của Chủ tịch Kim Nhật Thành là “Toàn dân được
ăn cơm trắng và chan canh thịt” cho đến tận bây giờ. Về mặt tổ chức của
Đảng cũng không hoàn chỉnh. Trước năm 1980 thì cứ 5 năm đại hội Đảng
một lần. Nhưng từ Đại hội VI (10/1980) đến nay – 23 năm không họp Đại
hội Đảng. Vậy các chi bộ sinh hoạt kiểu gì? Bầu bán ông Kim lên làm Tổng
bí thư như thế nào? Đó là chuyện rất lạ.
Quá trình đưa ông Kim con lên làm
lãnh tụ, sẽ nói sau. Riêng chuyện bầu ông làm Chủ tịch Đảng là cách làm
rất độc đáo, không có Đảng nào làm như thế cả. Theo như báo Đảng cho
biết, ông Kim sinh hoạt trong một chi bộ, được chi bộ suy tôn lên làm
Tổng bí thư. Một người có ý kiến như vậy, chả ai dám phản đối cả. Ai mà
phản đối là phải rút thẻ Đảng ngay. Cuối cùng cả chi bộ phải đồng ý. Chi
bộ báo cáo lên Đảng ủy khu. Đảng ủy khu lại phổ biến cho các chi bộ
khác. Cũng không có chi bộ nào dám phản đối cả, cứ theo vết dầu loang
đó, cả nước suy tôn ông Kim Châng In làm Tổng bí thư của Đảng, không có
một cái phiếu bầu, không có một cái biên bản, không cần có một Đại hội
nào cả. Tự dưng ông làm Tổng bí thư, kỷ luật Đảng, tổ chức Đảng không
chặt chẽ, theo một sự duy ý chí. Tất nhiên là ông ấy đã bật đèn xanh cho
một tay nào đó làm. Bên trong thì không ai có thể hiểu được, nhưng hình
thức bên ngoài thì là chuyện có thật, viết ở trên báo.
Quá trình lên nắm chính quyền của Kim con là do Kim Nhật Thành (Kim bố) chọn làm người thừa kế.
Về gia đình của Kim Nhật Thành:
Bà vợ trước có 3 con trai. Kim Châng In là thứ 3. Ông rất lười học, chỉ
thích chơi. Ông đã phá không biết bao nhiêu xe Mercedes của bố. Ông tập
cả lái máy bay phản lực, tập cả phi ngựa. Nhìn ảnh ông thì ta thấy rất
xấu tướng, bẩn tướng, tóc lúc nào cũng dựng ngược lên, môi thì thâm như
có bệnh tim, da dẻ thì xỉn. Cho nên mỗi khi ông xuất hiện, các phóng
viên ảnh thi nhau chụp và tập trung chụp vào cái môi để chứng minh là
ông ta có bệnh tim. Chỉ được cái Kim con rất hăng hái với phụ nữ. Các cô
diễn viên điện ảnh xinh xinh, đẹp đẹp là được tướng quân “chỉ đạo” tại
chỗ, nhiều lắm. Tại sao tôi nói vậy, vì từ thời anh Nguyễn Văn Trọng,
phó ban đối ngoại Trung ương Đảng làm Đại sứ ở bên ấy, có một cô con gái
học ở Trường Đại học Kim Nhật Thành có mấy bạn gái người Triều Tiên rất
xinh. Một cô đã nói với con gái anh Trọng: Làm con gái đẹp ở Triều Tiên
nhục lắm. Tao đã bị tướng quân đưa lên “chỉ đạo” ở trên đó một đêm. Giờ
tao chỉ muốn chết. Chỗ nào có bông hoa đẹp là ông ấy hái ngay.
Bà vợ hiện nay của ông Kim Châng
In cũng là một diễn viên điện ảnh. Bà này đã có chồng, có con rồi. Ông
Kim thích, thế là bà ta dứt khoát bỏ chồng để lấy ông Kim Châng In.
Nói rộng ra thì Kim Nhật Thành
cũng thế. Bố nào con nấy. Trong nhà Kim Nhật Thành có cái bể tắm bát
tiên, bể tắm lục tiên, tức là 6 hoặc 8 cô gái trẻ cùng tắm với ông ta.
Về sau khi tuổi già, bác sỹ riêng của ông ta luôn luôn phải thay máu của
ông ta bằng máu của các cô gái trẻ. Vì máu là cái quyết định sinh khí
của con người, máu đó sẽ quyết định anh già hay trẻ, thay được máu trẻ
vào thì khả năng sống và sức trẻ của con người sẽ rất tốt và mạnh mẽ
hơn. Vì vậy cứ định kỳ là thay máu để kéo dài tuổi thọ. Thứ hai là tại
sao lại bắt 8 cô, 6 cô cùng tắm với ông ta, vì để trao đổi iông giữa
người già và người trẻ, sẽ tăng cường sức trẻ của người già. Kim con
được chọn là người thừa kế duy nhất và đã được Kim bố chuẩn bị rất chu
đáo. Khi còn sống Kim bố đã tuyên bố: “Tôi sẽ chọn đồng chí Kim Châng In
làm người thừa kế, vì tôi thấy đồng chí Kim Châng In có rất nhiều phẩm
chất và năng lực công tác, đạo đức cách mạng, có nhiều khả năng thay thế
tôi làm việc, cho nên tôi tin rằng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ủng
hộ để đồng chí Kim Châng In làm việc”.
Vì vậy khi Kim Châng In lên là
nghĩ ngay muốn giữ gìn được an ninh chính trị phải nắm được 3 lực lượng:
một là quân đội để có sức mạnh trị vì đất nước; thứ hai là lực lượng an
ninh để phát hiện được những chỗ hỏng hóc trong xã hội để chấn chỉnh,
để dẹp. Nhưng quan trọng nhất vẫn là phải nắm được lực lượng trẻ, đó là
lực lượng thanh niên. Nhưng khi lên nắm quyền thì mạnh nhất là nắm được
quân đội và một nửa thanh niên. Còn an ninh thì không nắm được. Ông ta
nghĩ rằng cũng như các thời đại vua chúa khác, không có quân mạnh thì
không trấn yên được bờ cõi, không dẹp được loạn trong nước. Vả lại quân
đội là loại nước sông công lính, tuyển vào không phải trả lương, bắt đi
lao dịch ở đâu là phải đi. Cho nên rất nhiều công trình lớn của Triều
Tiên phần lớn đều do lực lượng quân đội làm, kể cả đập chắn nước lớn bên
bờ biển Tây. Thời hạn nghĩa vụ của Bắc Triều Tiên hiện nay tăng từ 7
năm lên 14 năm. 14 năm thì coi như hết cả đời thanh xuân của họ.
Quá trình đưa Kim Châng In lên
nắm quyền (1975) trong nội bộ Đảng đã có rất nhiều thắc mắc. Những năm
đó số cán bộ cốt cán của triều đình còn rất nhiều, về tuổi đời, năng lực
làm việc, công lao với cách mạng rất lớn. Thế mà lại đưa một anh còn
trẻ măng mới học trong trường – khoa kinh tế – để thay thế, không khỏi
có nhiều người phản đối. Vì vậy muốn duy trì được ý định của mình, Kim
Nhật Thành phải thay đổi rất nhiều cán bộ để duy trì chế độ cha truyền
con nối.
Khi ông Kim Nhật Thành chết đột
ngột ngày 8 tháng 7 năm 1994, người ta tưởng đây là cơ hội thuận lợi để
ông Kim con lên nắm tất cả các chức quyền trong Đảng, Nhà nước, Quốc hội
và Chính phủ. Nhưng đến tháng 5 năm 1998, tức là 4 năm sau Quốc hội mới
họp, lúc đó ông Kim Châng In mới lên nắm các chức vụ Tổng bí thư Đảng,
Chủ tịch Hội đồng quân sự Nhà nước. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1998 thì
Hội đồng quân sự Nhà nước thâu tóm toàn bộ quyền hành kể cả về Đảng lẫn
chính quyền trong đất nước. Người làm Chủ tịch Hội đồng quân sự Nhà nước
thâu tóm toàn bộ các quyền, kể cả quyền phát động chiến tranh. Như vậy
ông Kim con đã giữ hai chức vụ to nhất của đất nước. Theo Hiến pháp sửa
đổi năm 1998, toàn Đảng, toàn dân Triều Tiên suy tôn đồng chí Kim Nhật
Thành làm Chủ tịch nước vĩnh viễn của Nhà nước Triều Tiên, không có ghế
Phó chủ tịch nước. Kim con cũng muốn giữ chức vụ chủ tịch nước nhưng
trong quá trình đấu đá nhau không thể ngồi được, nên quy cho ông Kim bố
làm chủ tịch vĩnh viễn, mặc dù ông ta đã chết, đang nằm dưới đất. Như
vậy không ai nhảy được vào chiếc ghế này. Như vậy, tất cả các quyền hành
đều nằm trong tay Kim con. Cho nên có chuyện vui khi ông Đại sứ Bắc
Triều Tiên sang nhậm chức tại nước ta năm 1997, trình quốc thư: Trong
thư trình thì người ký lại là ông Kim Nhật Thành, mặc dù ông đã chết
được 3 năm rồi. Bộ Ngoại giao ta không chấp nhận, đề nghị bạn về báo
cáo, sau đó thông tin cho Việt Nam biết. Sau đó Bộ Ngoại giao bạn đề
nghị ta chấp nhận vì nước bạn lúc đó chưa có chủ tịch nước chính thức
nên cứ tạm thời để Kim Nhật Thành ký. Bạn cho biết một số nước khác đã
chấp nhận như vậy. Cuối cùng Bộ Ngoại giao xin ý kiến Trung ương. Trung
ương chấp nhận mặc dù người đã chết vẫn ký văn bản cho người đang sống.
Qua đó ta thấy trong Đảng bạn cũng đấu tranh quyền lực ghê gớm lắm.
Khi Kim Châng In tốt nghiệp cấp
III, ông có sang Liên Xô vào Trường Đại học Lômônôxốp tham quan. Sau đó
ông ta về nước và nói học ở trong nước cũng tốt. Câu nói “học ở trong
nước cũng tốt” của ông đã trở thành phương châm giáo dục của Bắc Triều
Tiên. Từ đó trở đi không gửi lưu học sinh ra nước ngoài. Mãi gần đây có
một số học sinh do các tổ chức quốc tế mời đi tham quan, hoặc đi du lịch
1, 2 tháng rồi về, nhưng thường không được trọng dụng. Phương châm giáo
dục của Kim Châng In đưa ra là phải đào tạo trở thành những trung thần
chỉ biết có trung thành với một lãnh tụ là Kim Châng In mà thôi.
Vấn đề tự hào dân tộc thì rất quá
đáng. Lãnh tụ Kim Nhật Thành đã nói chỉ có đúng, chứ không bao giờ
không đúng vì Hiến pháp năm 1998 sửa đổi đã ghi rõ đường lối kinh tế là
theo đường lối Thanh Sơn Lý (Làng Thanh Sơn). Đường lối Thanh Sơn Lý do
ông Kim Nhật Thành đề ra năm 1959. Đường lối này là Đảng lãnh đạo kinh
tế, tất cả đảng viên tập trung vào thực hiện nghị quyết của Đảng về kinh
tế. Bí thư chi bộ của làng đứng ra phân công lao động: Tổ này đi bới
cỏ, tổ kia đi bắt sâu. 8 giờ ra đồng, đến 10 giờ giải lao 15 phút hát
mấy câu, cờ lá chuối cắm khắp cả cánh đồng, đánh trống ầm ĩ. 11 giờ nghỉ
về ăn cơm. Như vậy thì làm sao nông nghiệp phát triển được.
Thí dụ thứ 2: Năm 1999, anh Trần
Văn Đăng sang thăm Bắc Triều Tiên, đi thăm rất nhiều nơi, có những tòa
nhà diện tích mặt bằng 2000 m2 , cao 5, 6 tầng. Hỏi ai thiết kế. Họ nói
chúng tôi thiết kế, xây dựng trong một năm. Đến đâu hỏi đều được bạn trả
lời trong một năm. Đến tàu điện ngầm, anh Đăng hỏi: Ga tàu điện ngầm
xây trong bao lâu. Họ lại nói trong một năm. Ở nhà máy sản xuất xi măng,
máy móc đều nhập của Hà Lan, đều dán tem sản xuất tại Hăm Buốc (Tây
Đức) và Hà Lan. Khi phóng viên hỏi họ nói chúng tôi tự sản xuất lấy.
Trong khi đó các chuyên gia Hà Lan đang cầm máy bộ đàm để chỉ đạo sản
xuất, lắp ráp. Họ vẫn bảo tất cả kỹ thuật của Triều Tiên. Chúng tôi
thiết kế, thi công, lắp đặt, vận hành. Tất cả là theo đường lối chỉ đạo
của Kim Châng In.
Ông Kim Châng In cũng rất thích
có tiếng tăm. Năm 1989 có Đại hội Thanh niên thế giới họp tại Bình
Nhưỡng, ông chỉ đạo xây khách sạn Liễu Cảnh 105 tầng, hình tháp có 3
chân chĩa ra như đuôi của cái tên. Xây được một năm thì móng đã bị
nghiêng. Báo chí ngày nào cũng đăng tin: Hôm nay xây được một tầng, hôm
nay xây được hai tầng. Sau đó bỗng thấy báo chí im hẳn. Hóa ra móng
nghiêng, không làm nữa. Đến bây giờ xi măng đã mọc rêu, trên đỉnh vẫn
còn có cái cần cẩu để trên đó. Rất nhiều nước xin vào gia cố, nhưng họ
không cho. Lãnh tụ đã làm, đã nói là đúng, có sai cũng để đấy thôi.
Hiện nay xã hội Triều Tiên nói Đảng là gì: Đảng là lãnh tụ, lãnh tụ là Đảng. Nhìn vào lãnh tụ là biết Đảng ra sao.
Về giáo dục của bạn là hình thức
chủ nghĩa, hời hợt. Bạn đã biết trên thế giới đang phát triển về mọi
mặt, nên bạn cũng rất lo, đang tìm cách giải quyết, không thể để mãi
tình trạng hiện tại, sợ sẽ đảo chính. Tin đảo chính thì nhiều, nhưng
chúng tôi cũng không nắm được chính thức. Nhưng tự dưng có vụ nổ, họ nói
đó là đảo chính.
Bắc Triều Tiên cũng đang tìm cách
để thoát ra khỏi khó khăn. Kim Châng In khẳng định: Trên thế giới này
chỉ có một siêu cường, đó là Mỹ. Khi mà khai thông được với Mỹ thì khâu
trung tâm sẽ khai thông được tất cả các quan hệ khác. Đó là tư tưởng
thông suốt chỉ đạo của Kim Châng In. Vì không mặc cả được với Mỹ và Hàn
Quốc về kinh tế, phải mặc cả với Mỹ bằng vũ khí hạt nhân. Năm 1985 đã
xây dựng phát triển vũ khí hạt nhân. Còn việc Bắc Triều Tiên đã có vũ
khí hạt nhân chưa thì hiện tại chưa ai khẳng định được. Nhưng Mỹ cũng
phải nể và Bắc Triều Tiên cũng đã kéo được Mỹ vào bàn hội đàm và ký được
hiệp định khung năm 1994. Qua hiệp định, Mỹ yêu cầu Bắc Triều Tiên
không sản xuất vũ khí hạt nhân nữa, Mỹ sẽ xây dựng cho Bắc Triều Tiên
một nhà máy phát điện bằng năng lượng hạt nhân nguyên tử, trị giá năm
1994 khoảng 4,6 tỷ USD, tính trượt giá đến bây giờ phải non 10 tỷ USD.
Trên đà thắng đó, Bắc Triều Tiên
tiếp tục dùng con bài hạt nhân để mặc cả với Mỹ với mục đích bắt Mỹ phải
ngồi bàn trực tiếp với Bắc Triều Tiên như thiết lập quan hệ đối ngoại,
viện trợ kinh tế cho Bắc Triều Tiên. Từ chuyện đó bắt buộc Nhật cũng
phải thiết lập quan hệ ngoại giao, phải viện trợ cho Bắc Triều Tiên.
Bây giờ Mỹ và thế giới cứ phải
quan tâm đến vũ khí hạt nhật của Bắc Triều Tiên, mặc dù không biết thực
hư sẽ ra sao. Nhiều người cho rằng Bắc Triều Tiên nói vậy chứ làm gì có
vũ khí hạt nhân vì tiềm lực kinh tế yếu, tổng sản phẩm quốc dân có 15 tỷ
USD. Trong khi đó, Hàn Quốc có 500 tỷ USD. Nhưng mà ai cũng sợ vì tính
khí của họ là tên khủng bố quốc tế rồi. Nhật và Hàn Quốc rất sợ vì họ có
một cơ ngơi khang trang đẹp đẽ, rất cần có một không khí hòa bình ổn
định để phát triển làm ăn kinh tế. Họ rất sợ chiến tranh. Cho nên nếu mà
Mỹ làm căng với Bắc Triều Tiên thì Hàn Quốc và Nhật Bản lại phải lạy
van Mỹ vì Mỹ đánh nhau với Bắc Triều Tiên thì chỉ thanh lý được một số
vũ khí từ chiến tranh thế giới thứ hai đến giờ. Còn nếu chiến tranh nổ
ra thì Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ bị thiệt hại trước tiên và rất lớn. Mỹ
cũng rất muốn đánh Bắc Triều Tiên. Có 2 lần, đó là cuối năm 1994, Mỹ đã
định dội bom nguyên tử xuống Bắc Triều Tiên. Thông tin này đã được kết
luận. Tháng 12 năm ngoái, Mỹ cũng đã định đánh Bắc Triều Tiên một lần
nữa, nhưng Hàn Quốc và Nhật Bản lại can.
Tại sao lại gọi Bắc Triều Tiên là
khủng bố quốc tế vì ngay từ lâu đã có tư tưởng dùng bạo lực để ám sát,
triệt lãnh đạo của Hàn Quốc. Năm 1988, Tổng thống Hàn Quốc đi thăm
Rang-un (Miến Điện), đến thăm nghĩa trang Nhà nước. Bắc Triều Tiên đã cử
2 đặc công sang cài mấy quả mìn ở cổng nghĩa trang. Rất may xe của Tổng
thống vừa đi qua thì mìn nổ, 4 xe tiếp theo chở các Bộ trưởng và tùy
tùng thì chết. Xe của Tổng thống thì thoát. Sau đó an ninh Miến Điện cho
lùng soát và bắt được 2 người Bắc Triều Tiên. Sau đó là vụ “quả bom
nước 20 tỷ tấn” định dội vào Hàn Quốc. Vì khu vực núi Kim Cương Sơn do
rất nhiều trái núi hợp thành hệ thống núi. Bắc Triều Tiên cho xây chắn
núi nọ với núi kia thành ra một cái bể chứa 20 tỷ mét khối nước. Mỗi mét
khối nước nặng 1 tấn. Người ta gọi là 20 tỷ tấn. Đập đó cách thủ đu
Xê-un 100 km và cao hơn thủ đô Xê-un hơn 1000 mét. Nếu Bắc Triều Tiên
cho đặt 1 tấn bộc phá ở dưới chân đập và cho nổ đồng thời thì 20 tỷ tấn
nước này sẽ thổi thủ đô Xê-un bay sang biển Đông như ta lấy một thùng
nước hắt một cái lá tre xuống cống. Cho nên thế giới gọi Bắc Triều Tiên
là tên khủng bố quốc tế và phản đối kịch liệt. Thế giới đã giúp thành
phố Xê-un xây một cái đập, gọi là đập Hòa Bình cong cong để chắn lượng
nước từ bên kia tràn sang, sẽ tóe sang hai bên.
Sau đó lại có vụ nổ máy bay của
hãng hàng không Koreairlines của Hàn Quốc năm 1988 làm chết mấy trăm
người. Rồi là bắt cóc người Nhật về Bắc Triều Tiên. Rồi việc thanh trừng
nội bộ rất nhiều. Cuối cùng Mỹ đã quy Bắc Triều Tiên vào danh sách nước
ủng hộ khủng bố quốc tế.
Bắc Triều Tiên quan hệ với Việt
Nam cũng có rất nhiều trắc trở. Bắc Triều Tiên rất cơ hội chủ nghĩa và
vì quyền lợi dân tộc hẹp hòi, chẳng có vì quốc tế cộng sản hay vì cái gì
hết. Thời gian cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, Bắc Triều Tiên
cũng ủng hộ nhưng với tinh thần là để chia lửa với Hàn Quốc, để Mỹ tập
trung quân đánh Nam Việt Nam, để cho Nam Triều Tiên rảnh tay đỡ chuyện
tranh giành khu vực bán đảo Triều Tiên. Chính vì thế nhiều khi Việt Nam
cần thì Bắc Triều Tiên không ủng hộ, lúc không cần thì lại dương cao
ngọn cờ yêu cầu Việt Nam theo Bắc Triều Tiên lập ra Mặt trận châu Á
chống Mỹ vào khoảng 1968-1970 là lúc cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam đang
rất quyết liệt.
Khi Việt Nam giải phóng hoàn toàn
miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, sáu tháng sau báo chí Bắc Triều
Tiên vẫn không đưa tin thắng lợi vĩ đại của Việt Nam. Cả thế giới người
ta hân hoan vui mừng, trống dong cờ mở để hoan hô Việt Nam đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược, nhưng ông bạn Bắc Triều Tiên vẫn cứ im lặng. Sau đó ta
vận động, lúc đó báo chí mới đưa tin, nhân dân mới biết Việt Nam giải
phóng rồi. Sau đó lại thôi luôn cho nên rất nhiều người về sau này không
biết được Việt Nam đã giải phóng. Họ cho rằng các đồng chí Việt Nam
không chịu chờ đợi để giải phóng Nam Triều Tiên đồng thời giải phóng Nam
Việt Nam, như vậy là các đồng chí dồn hết khó khăn sang cho chúng tôi.
Mỹ xong bên đó rồi sẽ quay sang đánh chúng tôi. Các đồng chí không có
tinh thần quốc tế. Họ lập luận quái gở như vậy. Còn vấn đề vì lợi ích
dân tộc hẹp hòi theo đuôi Trung Quốc trong vấn đề Campuchia chống Việt
Nam thì rất lớn. Nhưng vì ta không bắt được tài liệu, không bắt được
chuyên gia tại đấy, vì ta đánh Pôn Pốt theo kiểu xua chân, nếu đánh
chụp, đánh bao vây thì chắc chắn bắt được nhiều chuyên gia của Bắc Triều
Tiên. Bắc Triều Tiên thực ra cũng chẳng tốt gì với Việt Nam, nhưng lúc
nào cũng có tư tưởng đòi nợ Việt Nam: trước kia, chúng tôi giúp các đồng
chí trong chiến tranh chống Mỹ, bây giờ các đồng chí phải giúp chúng
tôi. Các đồng chí không được quan hệ với Nam Triều Tiên. Nhưng do xu thế
không thể đảo ngược được, các nước XHCN, Liên Xô, Trung Quốc đều đặt
quan hệ với Nam Triều Tiên. Việt Nam cũng là nước XHCN cuối cùng đặt
quan hệ với Nam Triều Tiên cho nên bạn đỡ hậm hực. Khi ta lập được quan
hệ ngoại giao rồi thì lại khuyên ta chỉ đặt quan hệ ngoại giao, đừng đặt
về quan hệ kinh tế, quan hệ với Đảng cầm quyền ở Hàn Quốc. Sau này,
Tổng bí thư Đảng ta đi thăm Hàn Quốc, thiết lập quan hệ với Đảng cầm
quyền của Hàn Quốc. Bạn cũng chẳng thể đảo ngược lại được, đành phải
ngậm ngùi. Mặc dù vậy họ vẫn có những trắng trợn, thí dụ: viên đại sứ
Bắc Triều Tiên hiện nay ở Việt Nam, khóa trước làm tham tán Sứ quán
Triều Tiên ở Việt Nam, lúc đó là năm 1995, anh ta lên Bộ Ngoại giao
khuyên chúng tôi: Các đồng chí đừng có tin Nam Triều Tiên kinh tế phát
triển, họ không làm được ô tô, tivi…, mà họ mua của các nước khác về để
tuyên truyền.
Trong khi đó, Việt Nam đã buôn
bán với Hàn Quốc, các công ty của Hàn Quốc đã vào đầu tư ở Việt Nam và
họ cũng biết chúng tôi đã từng công tác, học tập ở Hàn Quốc nhiều năm.
Tóm lại, con người Bắc Triều Tiên là rất khó chịu, xã hội, lãnh đạo rất
khó chịu, không hiểu nó là cái gì? Chúng tôi đã công tác ở Bắc Triều
Tiên mấy chục năm, nhưng bây giờ nói Bắc Triều Tiên là cái gì thì rất
khó.
Bắc Triều Tiên đưa ra tư tưởng
chủ thể. Vậy tư tưởng chủ thể là gì? Đó là tư tưởng cho con người là chủ
thể của cách mạng, cũng là chủ thể của vận mệnh của mình, của chính bản
thân mình. Đó là nội dung của tư tưởng chủ thể. Nhưng mà việc thực hiện
tư tưởng chủ thể thì lại thực hiện theo một ý đồ đằng sau những danh từ
của tư tưởng chủ thể. Cho nên thế giới đánh giá tư tưởng chủ thể là
loại tư tưởng đóng cửa, không tin vào bất cứ một ai, không tin vào bạn
bè, đóng cửa chặt. Có người nước ngoài nói tư tưởng chủ thể là một loại
tư tưởng phản động. Xã hội càng phát triển, càng văn minh lên thì tư
tưởng chủ thể càng bộc lộ rõ tính phản động, kìm hãm sự phát triển. Nghe
họ nói thì rất hay, nhưng làm thì rất dở. Thế giới sợ và ghét, ngại
không muốn đến gần.
Tư liệu sưu tầm của Triệu Xuân (đã qua đến mấy cầu :))
----------------------------------
0 comments:
Post a Comment